CÁC BÀI SUY NIỆM CN 4 MC A 2017
Lời Chúa: 1Sm 16,1b.6-7.10-13a; Ep 5,8-14; Ga 9,1-41
1. Người mù. PAGEREF _Toc477548342 \h 3
2. Người mù. PAGEREF _Toc477548343 \h 5
3. Người mù. PAGEREF _Toc477548344 \h 7
4. Hãy biết mình – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. PAGEREF _Toc477548345 \h 9
5. Mở mắt nhìn đời PAGEREF _Toc477548346 \h 12
6. Ngọn đèn đức tin – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt PAGEREF _Toc477548347 \h 15
7. Thầy là ánh sáng thế gian. PAGEREF _Toc477548348 \h 19
8. Mù loà và mù quáng – Lm Trần Ngà. PAGEREF _Toc477548349 \h 22
9. Con mắt là cửa sổ của linh hồn. PAGEREF _Toc477548350 \h 25
10. Nhận ra lòng Chúa xót thương. PAGEREF _Toc477548351 \h 28
11. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng. PAGEREF _Toc477548352 \h 31
12. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng. PAGEREF _Toc477548353 \h 35
13. Ánh sáng từ trái tim - Lm Cosma Hoàng Văn Đạt PAGEREF _Toc477548354 \h 39
14. Ánh sáng chiếu soi PAGEREF _Toc477548355 \h 41
15. Lạy Chúa, xin cho con được thấy!. PAGEREF _Toc477548356 \h 44
16. Cửa sổ tâm hồn – Thiên Phúc. PAGEREF _Toc477548357 \h 48
17. Ánh sáng đức tin. PAGEREF _Toc477548358 \h 51
18. Mở quà – Lm Vũ Đình Tường. PAGEREF _Toc477548359 \h 57
19. Đón nhận chân lý – Achille Degeest. PAGEREF _Toc477548360 \h 61
20. Ánh sáng trần gian. PAGEREF _Toc477548361 \h 63
21. Suy niệm của Lm. Tađêô Lê Văn Ý.. PAGEREF _Toc477548362 \h 66
22. Suy niệm của André Sève. PAGEREF _Toc477548363 \h 71
23. Đức tin. PAGEREF _Toc477548364 \h 73
24. Người mù. PAGEREF _Toc477548365 \h 76
25. Ánh sáng. PAGEREF _Toc477548366 \h 79
26. Mù thời hiện đại PAGEREF _Toc477548367 \h 82
27. Ánh sáng. PAGEREF _Toc477548368 \h 85
28. Đức tin. PAGEREF _Toc477548369 \h 88
29. Thời buổi lo lắng. PAGEREF _Toc477548370 \h 92
30. Bước nhảy của niềm tin. PAGEREF _Toc477548371 \h 96
31. Đôi mắt mới – Lm. Nguyễn Hữu An. PAGEREF _Toc477548372 \h 103
32. Mừng vui lên hỡi khắp miền dương thế. PAGEREF _Toc477548373 \h 107
33. Chúa Giêsu là ánh sáng. PAGEREF _Toc477548374 \h 111
34. Ánh sáng. PAGEREF _Toc477548375 \h 115
35. Định kiến – Lm Nguyễn Minh Hùng. PAGEREF _Toc477548376 \h 117
36. Ánh sáng đức tin. PAGEREF _Toc477548377 \h 121
37. Mù loà và mù quáng – Lm Trần Ngà. PAGEREF _Toc477548378 \h 123
38. Ai mù? Ai sáng? – R. Veritas. PAGEREF _Toc477548379 \h 126
39. Ánh sáng cho người mù – Lm FX Vũ Phan Long. PAGEREF _Toc477548380 \h 130
40. Chú giải của Noel Quession. PAGEREF _Toc477548381 \h 145
41. Nhận định về tường thuật Ga 9, 1-41. PAGEREF _Toc477548382 \h 153
42. Ánh sáng ban sự sống. PAGEREF _Toc477548383 \h 156
43. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn – FX Phạm Đình Phước. PAGEREF _Toc477548384 \h 159
44. Để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện. PAGEREF _Toc477548385 \h 162
45. Niềm tin dẫn lối cuộc đời – Lm. Bùi Quang Tuấn. PAGEREF _Toc477548386 \h 169
46. Con cái sự sáng. PAGEREF _Toc477548387 \h 172
47. Ánh sáng đức tin. PAGEREF _Toc477548388 \h 177
48. Ánh sáng đức tin – Lm. Bùi Mạnh Tín. PAGEREF _Toc477548389 \h 179
49. Bây giờ tôi đã thấy – Mark Link. PAGEREF _Toc477548390 \h 182
50. Bài đọc thêm: Về “cái biết”. PAGEREF _Toc477548391 \h 186
51. Đức tin người mù. PAGEREF _Toc477548392 \h 189
52. Ánh sáng soi chiếu. PAGEREF _Toc477548393 \h 193
53. Hai cách nhìn và hai lối sống. PAGEREF _Toc477548394 \h 196
1. Người mù
Lạy Chúa, xin cho con được sáng.
Trước lời van xin của người mù, theo lời tường thuật của thánh Matthêu, thì Chúa Giêsu đã truyền dẫn anh ta đến và hỏi: Con muốn Ta làm gì cho con? Và anh ta đã thưa lên cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin cho con được sáng. Phải chăng đây cũng là lời van xin chúng ta không ngừng kêu lêu cùng Chúa. Dĩ nhiên không phải là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt thân xác, vì cặp mắt ấy cho đến ngày hôm nay đa số chúng ta đều lành lặn, và có khả năng ghi nhận những sự việc, nhưng là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn. Thế nhưng mở cặp mắt tâm hồn để làm gì?
Tôi xin thưa trước hết là để chúng ta đánh giá đúng đắn những sự việc xảy ra. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng đều biết danh vọng là phù du, con người là tro bụi, thế nhưng vì không biết đánh giá đúng mức, chúng ta đã đầu tư quá nhiều cho tiền bạc, cho địa vị và cho chính bản thân của mình, trong khi đó lại quên mất nỗi ưu tư số một là phần rỗi của linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không hề có ý bảo chúng ta đừng lo lắng, đừng tìm kiếm chi cả, nhưng Người dạy chúng ta phải biết lo cái đáng lo và tìm cái đáng tìm trước hết, đó là Nước Thiên Chúa, đó là phần rỗi linh hồn bằng cách ăn ngay ở lành, xa tránh tội lỗi. Nhiều khi chúng ta cũng biết như thế, nhưng chúng ta lại không sống như thế, cho nên phải chăng chúng ta cũng chỉ là những người mù về phần hồn.
Tiếp đến xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn là để chúng ta nhận ra những chước mốc của ma quỷ đã được cài vào trong cuộc sống của chúng ta. Thực vậy, chúng ta thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Trong khi đó ma quỷ theo lời thánh Phêrô diễn tả, như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Cái bẫy chúng cài đặt cho chúng ta là những cám dỗ, hay cụ thể hơn, là những dịp tội, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng vấp phạm. Một người đam mê cờ bạc lại hay lui tới những chỗ đỏ đen. Một người nghiêng chiều về xác thịt mà lại thường xuyên gặp gỡ thầm lén và riêng tư, thì chắc chắn có lúc sẽ sa ngã, sẽ vấp phạm, vì chơi dao có ngày đứt tay, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta cũng biết thế, nhưng vẫn lứ lao đầu vào lửa như những con thiêu thân. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần tâm hồn mà thôi.
Chính vì thế mà trong giây phút này, một lần nữa chúng ta hãy kêu cầu: Xin cho con được nhìn thấy và xin cho con có đủ can đảm bước đi trên đường nẻo của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.
Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.
Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.
Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.
Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.
Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?
Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Thực vậy, đầu mối câu chuyện chỉ vì Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người mù vào đúng ngày nghỉ lễ. Luật về ngày nghỉ lễ do bọn Biệt phái chủ trương cấm làm những việc Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng Chúa Giêsu đã làm điều cấm ấy, cho nên Ngài chỉ là một kẻ tội lỗi. Mà đã tội lỗi, thì không thể nào là người bởi Thiên Chúa, do đó không thể làm được phép lạ.
Cái lý luận chặt chẽ ấy đã che mắt họ, không cho họ nhận biết điều lạ lùng đang xảy ra. Được đặt trước sự thực, nhưng họ lại tìm cách chối bỏ sự thực ấy: Kẻ được chữa lành không phải là người mù họ thường thấy, nhưng chỉ là một người giống như hắn. Họ đã muốn phủ nhận ngay chính người được chữa lành. Họ hạch hỏi và làm khó dễ cả người cha lẫn người mẹ. Bản thân anh cũng bị tra hỏi, tất cả như muốn anh chối bỏ chính cái ơn huệ, chính cái thực tế diễn ra nơi con người anh.
Thế nhưng cuộc hạch hỏi này lại cho chúng ta thấy người sáng suốt lại chính là anh mù. Còn kẻ mù lại là bọn Biệt phái, vốn tự nhận mình là thông suốt đạo lý và lề luật. Anh mù đã muốn đi từ thực tế không thể chối cãi được, tìm hiểu về con người đã làm phép lạ, để rồi cuối cùng anh không phải chỉ được chữa để nhìn thấy sự vật chung quanh, mà còn được nhận biết ánh sáng của niềm tin, nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng từ trời đến, để thông chia cho mọi người sự sống Thiên Chúa.
Trong khi đó bọn Biệt phái lại muốn đi từ một cách hiểu về đạo giáo của họ để phán xét sự thật. Vì họ đã sai lầm trong cách hiểu và lý luận của mình, nên họ đã bị bưng bít, không thể nhận ra được sự thật, cũng như ý nghĩa của sự thật ấy.
Chúa Giêsu đã đảo ngược các hoàn cảnh. Người mù tin ở Ngài thì được khỏi và được dẫn đến chỗ nhìn nhận mạc khải của Chúa. Trái lại những kẻ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt thì lại không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết.
Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Thực vậy, một cản trở không nhỏ trên con đường đến với Chúa và nhận ra tiếng Ngài trong những biến cố của cuộc sống đó là cứ bám víu vào những tiên kiến và tự mãn với những điều chúng ta đã biết, bằng sự rập khuôn và óc câu nệ. Tất cả tạo nên một thứ hàng rào kiên cố ngăn cản chúng ta tiếp cận với sự thật để được cứu rỗi. Những người thủ cựu và cố chấp giống như những kẻ đeo cặp kính màu xám, thì nhìn cái gì cũng hoá ra xám. Họ giống như những anh mù sờ voi, phùng má trợn mắt bảo vệ lập trường của mình, mà chẳng ai nắm được sự thật.
Bọn Biệt phái đã căm thù Chúa Giêsu và cuối cùng đã tìm cách thủ tiêu Ngài chỉ vì không chấp nhận để Ngài phá vỡ cái hàng rào này của họ. Chúng ta cũng sẽ chỉ có ánh sáng của lòng tin khi nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng đem lại cho chúng ta ơn cứu rỗi mà thôi.
4. Hãy biết mình – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.
Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
"Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".
Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.
Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:
Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.
Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.
Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.
Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.
Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.
Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.
Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.
Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen.
5. Mở mắt nhìn đời
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một mẩu đối thoại như sau:
Ông A: Có một tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự suy giảm đạo đức đã chững lại, cái tốt đang được thổi bùng lên.
Ông B: Khi cuộc sống no đủ, người ta sẽ không tham tiền của người khác nữa.
Ông A: - Giàu có thì nói làm gì. Có một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Hoài ở tỉnh Nghệ An nhặt được 10 triệu đồng ở ven đường. Cô ấy đã tìm đến khổ chủ trả lại dù bản thân rất nghèo, lại bị khuyết tật nặng.
Ông B:- Chắc khi nhặt được có người trông thấy nên mới đem trả chứ gì?
Ông A- Không hề, trên đường đi nhận tiền mai táng cho bố, cô này nhìn thấy bọc tiền trong đám cỏ, trên đường vắng tanh không một bóng người.
Ông B- Cô này bị tàn tật chắc cũng chẳng ăn uống được mấy nên số tiền đó không cần thiết lắm cho cuộc sống, giữ lại trong nhà, trộm cướp biết được đến 'hỏi thăm' thì khốn, trả cho yên chuyện.
Ông A:- Ai chẳng cần tiền, cô ấy có thể không ăn uống được nhiều nhưng tiền thuốc men là hết sức cần thiết. Một người luôn bị ốm đau, bệnh tật mà vượt qua được sức cám dỗ của đồng tiền như cô Hoài là rất đáng quý, thật đáng trân trọng. Bác không nên nghi ngờ người có lòng tốt như vậy.
Ông A:- Sở dĩ dạo này tôi mất niềm tin vào con người bởi đến đâu cũng gặp nhan nhản những kẻ giàu nứt đố đổ vách rồi mà vẫn tìm cách cấu véo, bòn rút của người nghèo. Những người như cô Hoài là hiếm hoi lắm, tôi tỏ ra nghi ngờ là để thử lòng bác thôi.
Đôi khi vì những gì diễn ra hằng ngày khiến chúng ta có cái nhìn sai lệch về thế giới chung quanh. Chúng ta thường đổ đồng mọi sự theo nhãn quan của mình. Nhất là vì lòng ích kỷ mà chúng ta nhìn người bằng ánh mắt xét nét, đa nghi. Cho dù họ làm việc tốt, họ làm việc thiện cũng bị chúng ta nhìn với ánh mắt nghi ngờ và kết án.
Nhất là giữa một thế giới gian ác, lắm thị phi khiến chúng ta luôn nhìn đời bắng ánh mắt bi quan. Chúng ta thường nhìn vấn đề trong cái nhìn tiêu cực hơn là tích cực. Giả dụ bây giờ được hỏi máy bay Malaysia mất tích ngày 08.03 vừa qua do nguyên do gì? Có lẽ đa phần sẽ trả lời là do khủng bố. Bởi thế giới ngày nay người ta quá quen với những hình ảnh khủng bố, máu đổ, chém giết, bom đạn.
Có một lần, một người nói với tôi họ mất một con gà và họ nghi ngờ người hàng xóm lấy trộm. Tôi hỏi rằng: Có bằng chứng không? Tại sao chị không nghi ngờ là con gà của mình nó bị con chồn bắt mất hay mèo hoang ăn mất. Vì nơi nhà chị là giữa đồng hoang . . .? Đừng kết án vội kẻo sai lầm tội nghiệp cho họ.
Đây cũng là cái nhìn cố hữu của những người biệt phái. Họ nhìn để bắt bẻ, để xem có đúng luật hay không? Thế nên, thường là họ tìm cách quy kết tội vào một con người. Những người biệt phái có lẽ cũng đã quá quen nhìn mọi sự trong cái nhìn bi quan nên họ không thể nhận ra cái tốt nơi tha nhân. Họ chỉ muốn phân tích theo chiều hướng tiêu cực hơn là tích cực.
Chúa Giê-su là Đấng có thể mang lại ánh sáng cho người mù. Ánh sáng của tâm hồn và thể xác. Mù kiểu nào cũng đáng thương, cũng tội nghiệp. Mù kiểu nào nhìn sự việc cũng khiếm khuyết, cũng không trọn vẹn, cũng sai lầm. Nhất là những người mù về tình người sẽ làm cho họ nhìn đời, nhìn người bằng ánh mắt ghen tương, giận hờn . . .
Thế nên, hãy để cho Chúa chữa trị con mắt của chúng ta. Hãy để cho Chúa mang lại ánh sáng cho cặp mắt chúng ta nhìn đời, nhìn người trong cái nhìn của yêu thương, của hy vọng. Một cái nhìn cuộc đời thật đơn giản, thật đáng yêu.
Đây cũng là cái nhìn mà Xuân Diệu đã từng nói:
Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để cho bà nói má thơm của cháu
Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu
Khi nhìn đời bắng ánh mắt lạc quan sẽ giúp ta nhìn người trong cái nhìn thân thiện, nhìn cuộc đời mới đáng yêu làm sao! Nhìn người đi trước trong cái nhìn kính trọng, nhìn người đi sau trong cái nhìn trân trọng. Và hơn nữa, muốn nhìn đời cho đúng phải biết chỗ đứng của mình mới có cái nhìn chính xác về cuộc đời.
Đôi mắt xanh non cha xin của con
Người đi trước xin của người sắp tới
Biết chỗ đứng để nhìn cho thật mới
Cuộc sống xanh non mãi mãi tươi giòn....
Xin Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian soi sáng tâm trí để chúng ta biết nhìn đời thật đáng yêu, nhìn người bên cạnh thật đáng trân trọng. Xin đừng vì ích kỷ, mù quáng mà sống thiếu tình thân với tha nhân. Amen.
6. Ngọn đèn đức tin – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.
Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt.
Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.
Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người hoạ sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt hoạ sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.
Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.
Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.
Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ: Rửa nước giếng có gì tốt đâu? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Chúa dạy.
Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.
Thoạt tiên, việc dẫn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Silôê rửa bùn đất mà Chúa Giêsu đã đắp lên mắt anh.
Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.
Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh rướm máu.
Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Chúa Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.
Đúng lúc đau đớn nhất Chúa Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Chúa Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Chúa Kitô.
Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: “Một người tên là Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi”. Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: “Ngài thật là vị tiên tri”. Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: “Người từ Thiên Chúa mà đến”. Và sau cùng anh đã nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng. Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không?
Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa?
Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.
Xin Chúa Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa? Bạn đã thắng vượt như thế nào?
2) Từ khi được Rửa Tội đến nay, bạn có “biết” Chúa ngày càng rõ hơn không?
3) Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời?
4) Anh thanh niên mù đã trải qua những khó khăn nào trong hành trình đến gặp Chúa Giêsu?
7. Thầy là ánh sáng thế gian
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc.
Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc.
Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Đức Giêsu, Đấng là Ánh Sáng của thế giới.
Sau khi được sáng mắt, anh đã bước vào một cuộc hành trình đức tin đầy cam go.
Lúc đầu, Đức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài.
Đức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Ngược với thái độ hồn nhiên và bình an của anh là thái độ bối rối bất an của giới lãnh đạo. Họ cứ hỏi đi hỏi lại về cách thức anh được chữa lành.
Cha mẹ của anh cũng được điều tra cẩn thận.
Trước những lập luận vững vàng của anh, họ chỉ biết chê anh là dốt nát và tội lỗi.
Dựa vào một quan niệm hẹp hòi về việc giữ ngày sa bát, họ khẳng định Đức Giêsu đã phạm tội khi chữa bệnh, tuy họ vẫn không hiểu tại sao một người tội lỗi lại có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.
Giới lãnh đạo Do thái giáo không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài.
Họ tự hào mình hiểu biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.
Mù không phải là một tội.
Cố ý không muốn thấy mới là tội đáng kể.
Chúng ta ai cũng sợ bị mù, nhưng lắm khi ta lại tự làm cho mình nên mù lòa, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, khi né tránh sự thật và không muốn nghe ai.
Như những người mù xem voi, mỗi người chúng ta chỉ thấy một phần của thực tại, một phần nhỏ của chân lý. Cần khiêm tốn để nhận mình mù, mù về chính mình, mù về lãnh vực mình thông thạo, vì điều mình biết chỉ là phần nổi của tảng băng, vì con voi không giống như cái cột nhà hay cái quạt.
Thay vì cãi nhau do có cái nhìn khác nhau, chúng ta có thể bổ túc cho nhau, để dần dần đến gần chân lý trọn vẹn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chúng ta đều ít nhiều mù lòa về chính mình. Theo ý bạn, làm sao chúng ta có thể ra khỏi sự mù lòa đó?
Tự ái, tự hào, tự cao, tự mãn... theo ý bạn, đây có phải là những thái độ khiến chúng ta khó đón nhận những góp ý nghiêm túc của người khác không?
Cầu Nguyện
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do.
Xuyên qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai loại mù: mù loà của đôi mắt thể xác và mù quáng của tâm hồn, của đầu óc.
Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng anh ta lại sáng suốt hơn những người Pharisêu tự cho mình tinh thông.
Trong khi đó, những người Pharisêu tự hào là người khôn ngoan thông sáng, nhưng họ đang bị mù quáng mà chẳng hay. Họ bị thành kiến che mờ tâm trí nên họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ nên họ đã không được đón nhận ơn cứu độ do Người tặng ban.
Những người mù loà thể xác hầu hết rất hiền hòa. Chưa từng nghe nói người mù gây ra tội ác hay phạm pháp bất cứ ở đâu. Họ là những người đáng thương và đáng kính.
Còn người mù quáng là những người thường gây ra lỗi lầm và tội ác nên họ thường bị người đời lên án khinh chê.
Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:
Mù quáng vì tham lam
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)
Mù quáng vì ghen tị
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn”. Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 18)
Mùa quáng vì dục tình
Về sau, khi vua Sa-un qua đời, Đavít được lên làm vua. Đavít lại đâm ra mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù quáng đến độ lập mưu giết chồng bà là Uria để chính thức cưới bà nầy làm vợ. (Samuen II, chương 11)
Nói tóm lại, lòng người rất dễ trở nên mù quáng do tình dục, do lòng tham lam, kiêu căng, ghen tị… khiến người ta lún sâu vào vũng bùn tội ác lúc nào không hay.
Chứng mù quáng nầy tai hại gấp ngàn lần mù loà đôi mắt thể xác.
Có hai điều tai hại do mù quáng phát sinh:
Một là người mù quáng không tự biết tình trạng mù quáng của mình, nên không cảm thấy cần được cứu chữa. Thế là họ cứ bị mù quáng cho đến mãn đời, mà vì mù quáng suốt đời nên cũng thường mắc phải lầm lỗi suốt đời.
Hai là cho dù có nhận biết mình mù quáng đi nữa, người ta cũng không cho đó là điều nghiêm trọng, nên không thấy cần được cứu chữa.
Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng, vì không tự biết mình mù, nên không ước ao thoát khỏi tình trạng mù quáng hết sức tai hại của mình.
Nguyện xin Chúa Giêsu soi sáng để chúng ta nhận thức rằng mù quáng vô cùng tai hại và cố tìm cách cứu chữa mình khỏi chứng bệnh rất tai hại nầy.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian, xin chiếu dọi ánh sáng Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống, sống có nhân cách cao đẹp ở đời nầy và sống viên mãn trong thế giới hồng phúc mai sau.
9. Con mắt là cửa sổ của linh hồn
(Suy niệm của Lm Phêrô Trần Minh Đức)
Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan, chúng ta sẽ chọn lựa như thế nào: câm điếc hay là mù loà, cụt tay, cụt chân! … Tất cả đều đáng sợ, chẳng ai muốn mình phải rơi vào tình trạng này. Nhưng bất đắc dĩ phải đắn đo suy nghĩ để chọn lựa, tôi tin rằng, sống trong cảnh mù loà là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một đứa trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể thể nào hình dung ra được!
Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về những sự việc xẩy ra bên lề của cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và một người bị mù từ lúc mới sinh. Anh ta không thể nào hiểu nổi, tại sao từ khi chào đời mình đã phải mang số phận hẩm hiu như thế này? Mình sinh ra đời làm người như thế này để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời tôi? Tôi đã làm gì nên tội để rồi phải sống bên lề xã hội, phải đi ăn xin! Phải chăng đây là hình phạt do tội lỗi của cha mẹ gây nên? Anh ta phải quờ quạng, sờ mó mọi vật chung quanh, mong sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Chỉ có một làn da mong manh che đậy đôi mắt nhưng anh có cảm giác, nó giống như một bức tường dầy đặc, không có cách nào đột phá, khai thông!
“Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì là ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.
Bài Phúc âm cũng phản ảnh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy. Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây? Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù loà gấp ngày lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù.
Người mù đã được Đức Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta. Qua bí tích Rửa tội Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.
10. Nhận ra lòng Chúa xót thương
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đứng trước thân phận đáng thương của một người bị mù lòa từ thuở mới lọt lòng mẹ, hay trước bất cứ một số kiếp hẩm hưu nào khác, người ta dễ dàng đặt câu hỏi: ‘tại sao?’. Tìm hiểu nguyên nhân sự việc là một đòi hỏi hợp lý của bất cứ đầu óc suy luận nào; và trong công việc đó, định luật ‘nhân - quả’ thường được áp dụng cách triệt để. “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Càng suy nghĩ theo lối thông thường đó thì câu trả lời của Đức Giêsu càng gây cho chúng ta kinh ngạc đến sửng sốt: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó quả là một lối nhìn, một suy luận thật khác lạ, đi ra ngoài (đúng hơn: vượt lên trên) qui luật luận lý nhân quả, một điều mà lý trí tự nhiên khó ai chấp nhận nổi. Tuy nhiên chính lối nhìn và hiểu biết này mới là triết thuyết của Tin Mừng, vì nó chứa đựng bên trong một sức mạnh giải phóng đến kỳ lạ. Phải chăng đây chính là lô-gích mới mẻ đã được giới thiệu cho nhân loại? Không may, mỗi khi có một tia sáng mới lóe lên thì ánh sáng chói lọi của nó thoạt đầu dễ làm cho con mắt chúng ta bị xốn xang. Ánh sáng Tin Mừng cũng là như thế, thoạt nghe nó có vẻ điên rồ và phi lý siết bao!
Theo khẳng định của Đức Giêsu thì ‘nhận ra công trình của Thiên Chúa’ mới chính là nguyên nhân (hay mục đích) của biết bao sự kiện tang thương, tiêu cực đang xảy ra trên trần gian (động đất, sóng thần tàn phá Nhật Bản hay siêu bão hayan chỉ là nhưng ví dụ điển hình). Câu khảng định trên mới nghe ta tưởng như hoàn toàn phi lý, không thể chấp nhận được. Ta vẫn quen chia sẻ lối suy nghĩ phổ biến: ‘công trình của Thiên Chúa’ phải là điều gì hùng vĩ, hoàn hảo và tốt lành lắm; còn những bất toàn, tang thương không thể là công trình của Ngài. Nguyên nhân của các sự kiện đó nằm ở nơi khác… tội lỗi chẳng hạn; cùng lắm Thiên Chúa cũng chỉ ‘cho phép’ xảy ra vì một lý do nào đó, để thử thách, răn đe... Cách duy nhất để giải thích câu nói của Đức Giêsu là hiểu: ‘công trình của Thiên Chúa’ chính là lòng nhân ái xót thương mà Thiên Chúa đang ra công thực mạc khải và thực hiện, nhất là qua cuộc sống và cái chết thập giá của Giêsu Na-da-rét. Trong trường hợp cụ thể của người mù từ lúc mới sinh, thì chính nhờ việc anh được chữa lành mà anh, và nhiều người khác nữa, nhận biết Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa nhân lành. “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. Anh mù đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mình qua con người được sai đến là Đức Giêsu; và một khi đã nhận biết “chính đấng đang nói với anh đây” là vị đó, anh tin vào Người: “Thưa Ngài, tôi tin” và bái lạy Người. Đối với anh, vấn nạn tại sao mình bị mù, cũng như tại sao mình được chữa khỏi có lẽ không quan trọng lắm, điều quan trọng đối với anh là biết rằng mình được Thiên Chúa xót thương. Anh tin vào tình thương đó qua việc ông Giêsu đã chữa anh lành, cho dầu lúc đầu anh chưa biết Người là ai. Niềm tin này đã giúp anh vượt qua lý luận ‘nhân – quả’ để nhìn ra ‘công trình của Thiên Chúa’ là lòng nhân ái Ngài. Trong khi đó những người Pha-ri-sêu thông thái lại đã không vượt qua nổi cái lô-gich hẹp hòi: “mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu… chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Họ luẩn quẩn trong lối suy nghĩ nhân quả đó nên không thể tìm ra giải đáp thỏa đáng, và như thế sẽ tiếp tục mãi tình trạng đui mù là không thể nhận ra ‘công trình của lòng Chúa xót thương’. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”
Như vậy niềm tin Kitô hữu phải giúp tôi vượt lên trên lối suy nghĩ ‘nhân-quả’ bình thường, để nhận ra công trình yêu thương Thiên Chúa từ nhân đang thực hiện qua mọi biến cố buồn vui đang xảy đến cho tôi và cho nhân loại. Nhìn lên Đức Giêsu chết treo trên thập giá, tôi không được luẩn quẩn mãi trong cái suy luận phức tạp ‘tại sao?’, nhưng với con mắt đức tin phải nhận ra ngay ‘công trình yêu thương’ Thiên Chúa đang liên tục thực hiện. Cũng với niềm tin này, tôi nhìn vào mọi biến cố hàng ngày đang xảy ra cho chính tôi và quanh tôi, nhất là khi chúng tiêu cực và vô lý tới độ không thể nào giải thích nổi, để nhận ra bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện diện đầy nhân ái của Thiên Chúa là Cha.
Là Kitô hữu như Phaolô, giữa muôn sóng gió và đổ vỡ của cuộc sống, tôi sẽ luôn sống trong hy vọng và tín thác. Hãy “không để bất cứ điều gì làm bạn xao xuyến!” (‘nada te turbe’ Tê-rê-xa Avila) vì “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,39).
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn để được nhìn thấy trong mọi biến cố cuộc đời, nhất là khi đau khổ và tội lỗi ngập tràn,‘công trình cứu độ của Thiên Chúa đang được tỏ hiện’ nơi con. Xin cho con cặp mắt sáng như thánh Âu-tinh, để nhận ra ngay cả các tội mình đã từng phạm trong quá khứ đều là những ‘tội hồng phúc!’, vì qua đó, con càng có thể vững vàng hơn đặt trọn niềm tin vào Giêsu Thập Giá, biểu hiện trọn vẹn nhất của tình yêu nhân ái Chúa Cha không bao giờ xua đuổi ruồng bỏ con. Amen
11. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng
BÀI 1
Mù là một chứng bệnh gây nhiều đau khổ thiệt thòi, buồn tủi và nguy hiểm cho bệnh nhân. Người mù suốt đời, ngày cũng như đêm ở trong tối tăm, không xem thấy ánh sáng, không thể nhìn ngắm cảnh đẹp thiên nhiên, màu sắc của vạn vật cũng như nét mặt xinh tươi của người thân yêu. Đó là những thiệt thòi rất lớn làm giảm thiểu sinh lực và hạnh phúc của cuộc đời.
Hơn nữa, người mù còn mặc cảm, coi mình là vô dụng, ăn bám và phải cậy nhờ người khác trong mọi sự, đi phải có người dắt, ăn phải có người đem đến tận tay, có khi liều mình gặp nguy hiểm sa lửa, sa nước, va chạm, vấp ngã thiệt đến tính mạng.
Mù là chứng bệnh gây đau khổ thiệt thòi cho bệnh nhân như vậy. Đàng khác, mù cũng là chứng bệnh nan y bất trị, ngày nay khoa học đã tiến bộ rất nhiều, người ta chữa được nhiều bệnh trước kia không thể điều trị, dù vậy, người ta chưa tìm được phương thuốc nào làm cho người mù sáng mắt.
Một việc mà con người sau bao cố gắng tìm tòi, cho đến nay vẫn chưa làm được thì Đức Kitô đã thực hiện một cách dễ dàng mau chóng như một trò chơi thích thú. Bài Phúc âm hôm nay thuật lại rằng: “Khi ấy, Chúa Giêsu gặp một người mù bẩm sinh đang ngồi ăn xin, Chúa nhổ xuống đất, lấy nước miếng(nước dãi) trộn thành bùn xoa lên mát người đó, rồi bảo đi tới hồ Si-lô-ê mà rửa. Anh đi ra và rửa, đoạn trở lại thì trông thấy mọi sự rõ ràng”. Đây là một phép lạ hiển nhiên, gây chấn động mạnh mẽ trong dân chúng. Theo công lệ tự nhiên, bùn chỉ có thể làm cho người ta đau mắt, nhưng trường hợp này bùn xoa vào mắt lại làm cho người mù được sáng. Như vậy, không phải do tính chất của nó mà do quyền năng của Đức Giêsu đã phú bẩm cho nó và dùng nó như chất liệu chữa bệnh phần xác.
Ta có thể nói, đây là hình ảnh các nhiệm tích mà Chúa sẽ lập, trong đó Chúa dùng những chất liệu bề ngoài để chữa tật bệnh linh hồn, thí dụ: nước trong phép Rửa tội, dầu thánh trong phép Xức dầu bệnh nhân. Sau nữa, phép lạ chữa người mù trong bài Phúc âm hôm nay cũng tượng trưng một việc vĩ đại hơn Chúa sẽ thực hiện, đó là làm cho người ta khỏi mù phần linh hồn, biết mở mắt trí khôn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Cha nhân lành, nhìn nhân Đức Ki ô là Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ loài người. Vì thế, sau khi người mù bẩm sinh, được Chúa cho sáng mắt, anh đã can đảm làm chứng về Chúa và bị người Do thái đuổi ra khỏi Đền thờ, Chúa đã đến gặp anh và hỏi: “Ngươi có tin Con Thiên Chúa không?” – Anh nói: “Thưa Ngài, Con Thiên Chúa là ai để tôi tin”. – Chúa trả lời: “Ngươi đang nhìn thấy Ngài và Ngài đang nói với ngươi”.- Anh liền thưa: “Lạy Thày, con tin và anh sấp mình thờ lậy Chúa”. Từ đây, anh trở nên một tìn hữu nhiệt thành và một tông dồ can đảm. Đối với anh được khỏi mù phần xác là một sung sướng lớn lao, nhưng được khỏi mù phần linh hồn là một hạnh phúc lớn lao hơn nhiều, vì bệnh mù phần xác chỉ là một bất hạnh tương đối và tạm thời ở đời này, còn bệnh mù phần linh hồn làm mất hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, không thể lấy gì bù lại được. Do đó, những năm ở trần gian, Chúa gặp rất nhiều người mù, nhưng chỉ một số ít được Chúa chữa khỏi, khi về trời Chúa cũng không để lại phương thuốc gì để chữa người mù sáng mắt. Nhưng phần linh hồn, Chúa còn dùng những phương thế hữu hình để soi sáng cho người ta biết Chúa và những chân lý trong Đạo. Những phương thế hữu hình đó thể hiện nhiều cách khác nhau: có khi là một lời khuyên với dòng nước mắt của người mẹ gia đình như bà thánh Mônica đã làm cho thánh Auguttinô là con mình trở lại Đạo chính; có khi là một hiện tượng gây xúc động xẩy đến như đám tang và thi hài tàn rữa của bà hoàng xinh đẹp nhất nước đã làm cho thánh Phanxicô bỏ địa vị chức quyền để tận hiến cuộc đời cho Chúa; có khi là một thất bại trong ước mơ, như việc thua kiện bất ngờ đã làm thánh Anphongsô bỏ đường danh vọng để dâng mình phục vụ Giáo Hội; có khi là gương sáng của người chung quanh như cử chỉ tôn sùng thành kính của người Ả rập đã làm cho cha Sac-lơ Phu-cô lấy lại được Đức tin đã mất từ thời niên thiếu…Tất cả những sự kiện hữu hình trên đây, ta có thể nói là như chất liệu Chúa đã dùng để làm cho người ta sáng mắt linh hồn, nhìn nhân được Chúa và trở lại với Ngài, cũng như Chúa đã dùng chất bùn làm cho anh mù bẩm sinh được sáng mắt rồi sau đó được sáng trí khôn để tuyên xưng Chúa và tôn thờ Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: ánh sáng làm cho người có mắt lành mạnh được dễ chịu và xem thấy sự vật, nhưng cũng làm cho người đau mắt khó chịu và chói lòa. Đức Giêsu là ánh sáng soi trần gian, những ai có thiện chí và tâm hồn ngay lành mới nhận được Ngài, còn những ai thiếu thiện chí và có thành kiến sẽ không nhìn nhận Chúa mà còn phản đối Ngài. Bài Phúc âm hôm nay chứng minh điều đó, đứng trước phép lạ hiển nhiên Chúa làm, người mù đã nhận Chúa và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, song những người biệt phái thì tìm mọi cách để chối bỏ phép lạ của Chúa và còn trục xuất những ai tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô. Trước sự ngoan cố của họ, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính vì để xét xử mà Ta đã xuống trần gian để những ai không xem thấy thì được xem thấy và những kẻ xem thấy sẽ hóa nên mù”.
Để kết luận, chúng ta hãy xin Chúa cho ta một thiện chí và một tấm lòng ngay lành để chúng ta đón nhận được Chúa khi Ngài dùng các dấu chỉ bề ngoài mà đến gặp ta và tỏ cho ta nhận biết Người. Amen
12. Suy niệm của ĐHY. Phaolô Phạm Đình Tụng
BÀI 2
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một phép lạ Đức Giêsu làm cho một người mù bẩm sinh được sáng mắt.
Trước phép lạ hiển nhiên đó, ta thấy có bốn thái độ của những hạn người khác nhau:
- Trước hết là thái độ bàng quan của dân chúng. Họ đứng ngoài cuộc mà nhìn, không tham gia, coi như không liên hệ gì đến mình, do đó, họ phát biểu những ý kiến vu vơ trái ngược nhau. Kẻ thì đặt vấn đề “Phải chăng đây anh mù vẫn ngồi ăn xin?”, người thì nói: “Chính là hắn ta”; kẻ khác lại bảo: “Không phải, nhưng là một tên khác giống như hắn”.
- Sau là thái độ hèn nhát, trốn trách nhiệm của cha mẹ anh mù, ông bà ta biết rõ anh mù là con mình, và anh ta đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, nhưng ông bà không dám nói lên sự thật, không dám làm chứng cho Chúa, ông bà sợ liên can, bị phiền hà vì người Do thái đã bàn tính trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai công khai nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Bởi đó, ông bà đẩy trách nhiệm cho con mình và nói: “Chúng tôi nhận nó là con chúng tôi và bị mù từ mới sinh… nhưng ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự trả lời các ông”.
- Thứ ba là thía độ ngoan cố và ác cảm của người biệt phái, vì các cảm với Chúa Giêsu, họ không muốn nhận Ngài là Đức Kitô. Lại còn ngăn cấm những ai nhìn nhận và làm chứng cho Ngài. Vì ngoan cố họ nhắm mắt trước một sự thật quá hiển nhiên và tìm mọi cách cho người khác phủ nhận sự thật đó. Nhưng không may cho họ, những lập luận ngụy biện của họ không thuyết phục được anh mù mà còn bị anh phỉ báng những lời lẽ đanh thép khiến họ phát khùng đến nỗi dùng quyền lực đàn áp công lý truc xuất anh ra khỏi hội đường. Thái độ ác cảm và ngoan cố của họ bị Chúa lên án khi Ngài tuyên bố: “Ta đến trần gian để cho những kẻ không xem thấy được xem thấy, còn những kẻ xem thấy trở nên mù”.
- Sau cùng, thái độ của anh mù là phục thiện, thẳng thắn và kiên cường. Người phục thiện luôn sẵn sàng từ bỏ quan điểm riêng mình để lằng nghe lẽ phải, nhìn nhận sự thật. Người luôn sẵn sàng bệnh vực lẽ phải, làm chứng cho sự thật theo tiếng lương tâm. Không quanh co dấu diếm, không chiều đời cho yên phận. Thánh Phaolô một lần đã phản đối thánh Phêrô vì không thẳng thắn. Đó là, trước khi những người Do thái đến thì thánh Phêrô ăn uông với người dân ngoại tân tòng, nhưng khi người Do thái đến thì Phêrô lẩn tránh vì sợ họ phê bình, Trước thái độ mập mờ không hợp tinh thần Phúc âm như vậy, ông Phaolô đã nói với ông Phêrô: “Ông là người Do thái mà muốn sống theo kiểu dân ngoại, có lẽ gì ông bắt người dân ngoại sống theo kiểu Do thái?”(Gal 2, 12-13)
Trở lại người mù trong Phúc âm, chúng ta thấy anh ta rất phục thiện và thẳng thắn. Anh dám nhìn thẳng vào sự thật, mặc dù người khác cố tình phủ nhận. Khi người ta hỏi làm thế nào mà anh được sáng mắt, anh trả lời ngay: Ông mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi, bảo tôi đến hồ Si-lô-ê mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi trông thấy. Vì không che dấu được phép lạ Chúa Giêsu đã làm, những người Do thái đổi chiến lược vào uy tín của Ngài. Họ nói với anh mù: “Chúng tôi biết Thiên Chúa đã phán với ông Maisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến. Anh mù thẳng thắn trả lời cái đó mới lạ chứ ! Ông ấy đã mở mắt cho tôi mà các ngài không biết bởi đâu mà đến…” “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai mở mắt cho người mù bẩm sinh, nếu người ấy không bởi Thiên Chúa. Qua cuộc rtanh luận đó, ta thấy anh mù rất phục thiện và thẳng thắn, hơn nữa anh còn tỏ ra kiên cường nghĩa là trung thành giữ vững lập trường không ngại khó khăn, không sợ đe dọa, sẵn sàng đón nhận hậu quả là bị trục xuất ra khỏi hội đường và bị coi như người ngoại giáo.
Ngày nay, Chúa đã về trời, Đạo Chúa đã được rao giảng khắp nơi và từ hai nghìn năm nay, thái độ của nhân loại đối với Đạo Chúa cũng như những người đồng thời với Chúa.
Trước hết, là những người bàng quan, không xét đến vấn đề tôn giáo, vì họ còn bận tâm làm những việc khác mà họ cho là thiết thực hơn.
Sau là những người tin Đạo, nhưng chỉ giữ Đạo tại tâm, không dám tuyên xưng Đạo ra trước mặt thiên hạ, không dám lên tiếng bệnh vực sự Đạo khi cần thiết, giống như bố mẹ anh mù trong bài Phúc âm hôm nay.
Thứ ba là những người ác cảm với Đạo và bách hại những ai tin Đạo, như những người biệt phái ác cảm với Chúa, cố tình phủ nhận phép lạ Chúa làm, và trục xuất những ai tuyên xưng Chúa là Đức Kitô.
Sau cùng là những người có tâm hồn trong sạch, ý chí ngay lành, đã tin theo Chúa và sẵn sàng chịu mọi khó khăn để trung thành với Chúa như các Thánh Tử Đạo mà lịch sử Giáo Hội đã ghi lại những tấm gương anh hùng.
Xưa, khi Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền thờ, có cụ già Simêon ẵm Chúa trên tay, tuyên xưng Chúa là ánh sáng soi các dân tộc, cụ cũng nói tiên tri về tương lai của Chúa và thái độ người đời đối với Ngài. Cụ nói: “Trẻ này sẽ nên duyên cớ cho nhiều người vấp phạm và nhiều người chỗi dậy”(Lc 2, 34). Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm. Cũng một cái đèn sáng nhưng sinh hiệu quả khác nhau tùy thái độ mỗi người trước cái đèn đó, ai quay mặt về hướng đèn sẽ nhìn thấy ánh sáng và biết đường đi, ai quay lưng lại, thì bản thân họ sẽ tạo nên bóng tối, làm họ vấp ngã.
Trong Phúc âm, Chúa cũng xưng mình là ánh sáng thế gian, ai theo Ngài sẽ không bước đi trong tối tăm.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn trong sạch, một ý chí ngay lành, một niềm tin vững mạnh để bước theo Chúa cho đến cùng. Chúa là đường, là sự thật, là sự sống, bước theo Chúa chúng ta sẽ không lầm lạc, ở trung thành với Chúa ta sẽ được sống đời đời.
13. Ánh sáng từ trái tim - Lm Cosma Hoàng Văn Đạt
Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.
1. Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:
- Khi ở tận chân trời có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
- Chưa đúng hẳn!
Một người khác:
- Khi ở mãi chân trời có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
- Chưa đúng hẳn!
- Vậy cụ dạy thế nào ạ?
- Khi có một người đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình, quá khứ... mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu không thì trời còn tối.
2. Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư.
Nhật hoàng:
- Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe.
- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo.
- Ta thấy nhà ngươi giống y hệt một con lợn!
- Tâu bệ hạ, còn hạ thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật!
- Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?
- Tâu bệ hạ, dễ hiểu lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!
3. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.
Các nhà thơ thường thi vị hóa cặp mắt "như cửa sổ tâm hồn", chính nhờ cặp mắt mà con người mới có thể nhìn thấy ánh sáng để biểu lộ tình yêu, biểu lộ với các tương quan, ánh sáng tự nhiên để dẫn ta đến với các cảnh vật xung quanh. Còn ánh sáng tâm hồn để nối kết những mảnh đời, những con tim lạc điệu đến gần nhau hơn. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là ánh sáng đức tin cho con người "thấy" được Thiên Chúa và đến gần với Ngài hơn.
Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn. Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi , hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày.... Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết "mở mắt" ra để đón nhận ánh sáng.
Bà già mù tôi viếng thăm , tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài Ti n Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay. Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.
Hành trình đức tin của anh mù không phải là một con đường dễ dàng, anh phải đi từ những nghịch cảnh đơn giản đến những tình huống phức tạp. Chính thái độ chấp nhận và hành trình dấn thân theo lời Chúa dạy mà mắt anh lập tức đã được mở ra, anh đã "Thấy" Chúa Giêsu không phải bằng cặp mắt xác thịt, mà còn cảm nhận thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin. Người hành khất mù loà bẩm sinh, kẻ bị coi là tội lỗi bị xã hội từ chối, một hình phạt mà người Do Thái cho là nặng nề, nhục nhã nhất đã trở nên "dấu chỉ" sống động của những người được Đức Giêsu soi sáng và tái sinh.
Trong cuộc sống đạo, chúng ta không bị mù về con mắt thể xác, cũng không bị mù về con mắt tinh thần. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta vẫn chưa biết mở con mắt ra để sống trong ánh sáng đức tin. Rất nhiều lần ta sống như một kẻ mù loà. Mù vì không bao giờ thấy được những hồng ân Chúa ban để tạ ơn Người. Ta mù vì không thấy được những kỳ công quyền năng Chúa làm để mà ca tụng ngợi khen, mù loà vì đã không thấy được biết bao nhiêu điều thiện hảo mà những anh em đồng loại khác đã làm cho chúng ta để mà tạ ơn... Có những lúc chúng ta không bị mù loà nhưng lại cố ý đóng kín mắt để không nhìn thấy, cố ý bịt tai như bị tê liệt để không còn nghe thấy những điều khốn cực, nghèo khổ mà đáng ra tôi phải có bổn phận giúp đỡ, tê liệt trước những thiếu thốn của anh em xung quanh trong khi hiện tại tôi đang dư thừa.
Ngược lại với bà già mù mà tôi viếng thăm, là những người sáng mắt xung quanh. Cũng giống như những đầu mục Do Thái và những người Pharisêu hôm nay, tự kiêu tự mãn là minh "sáng mắt" chối bỏ những "dấu chỉ". Hậu quả là phải chịu đắm mình trong đêm tồi triền miên. Trong khi những người mù nhờ Đức Giêsu đã trở nên sáng mắt, thì những người tự cho mình là sáng mắt lại trở nên mù loà. Như Đức Giêsu đã cảnh cáo "Tôi đến thế gian này để xét xử cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù" (Ga 9, 39). Những người Phariseu tự cho mình là người sáng mắt lại trở nên mù loà. Chính sự cứng đầu kiêu căng đó đã tố cáo rằng không phải mắt họ bị mù loà. Nhưng là tâm hồn họ bị mù loà, lòng trí họ bị bóng đêm phủ lấp, đến nỗi họ không thể nhìn thấy được các dấu chỉ của Thiên Chúa. Và khi Ánh Sáng đến họ không chịu chấp nhận mà lại lao mình vào trong bóng tối u mê.
Lạy Chúa , xin Chúa biến đổi tâm hồn con trong Mùa Chay này, xin chữa lành bệnh mù tinh thần của chúng con, xin Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng con được nhìn thấy. Xin Chúa làm cho chúng con thành những người biết nhận ra Chúa trong mọi sự và cảm nhận được rằng: Chúa là Ánh Sáng, là Sự Sống và là sự cứu rỗi. Amen.
15. Lạy Chúa, xin cho con được thấy!
(Suy niệm của Lm. Phaolô Trương Hoàng Phong)
Ngày xưa, mỗi khi ra khỏi nhà vào ban đêm, người Nhật Bản thường có thói quen tay cầm theo một chiếc lồng đèn. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không cầm chiếc lồng đèn trên tay nên anh chủ nhà mới lấy chiếc lồng đèn của mình để đưa cho anh mù.
Nhưng anh mù từ chối và nói:
- Đối với một người mù như tôi thì ngày cũng như đêm, bóng tối cũng như ánh sáng. Cho nên chiếc lồng đèn này chẳng có ý nghĩa gì hết. Cầm nó theo cũng vô ích!
Người bạn mới giải thích:
- Tôi biết anh không cần chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm nó trên tay thì người khác sẽ không thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào người anh đấy!
Anh mù nghe anh bạn lý luận có lý nên đành nhận lấy chiếc lồng đèn và ra về. Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào, đụng vào. Anh ta tức tối và la to lên:
- Bộ mày đui hả? Không thấy tao cầm chiếc lồng đèn trên tay sao?
Người kia trả lời như sau:
- Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn đèn bên trong nó đã tắt rồi. Cho nên tôi không thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!
Câu chuyện trên giúp cho chúng ta hiểu được: đi trong bóng đêm ai cũng cần có ánh sáng. Trong đêm tối, tưởng chừng như không cần thiết nhưng người mù cũng cần cầm đèn sáng trên tay. Anh cầm đèn không phải để cho mình nhưng để người khác thấy anh mà tránh hoặc có thể họ sẽ giúp đỡ anh. Trong đêm tối, người sáng mắt cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp anh thấy đường đi, thấy người khác và biết được những chướng ngại vật trên đường. Ánh sáng giúp anh đi đúng đường, đúng hướng, không bị lầm đường lạc lối. Ai cũng cần có ánh sáng tự nhiên để nhận biết mình và thấy tha nhân.
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay, Thánh Gioan cũng kể cho chúng ta nghe câu chuyện về anh mù. Anh này bị mù từ nhỏ, bị mù bẩm sinh. Vì mù nên anh không biết khuôn mặt của mình, không biết cha mẹ mình là ai và những người thân của mình như thế nào. Anh cũng không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và thiên nhiên. Cuộc sống của anh toàn là một màu đen. Ngày cũng như đêm. Đêm cũng như ngày. Ai cũng như nhau. Anh phải sống trong một tâm trạng buồn thảm và thất vọng hoàn toàn. Nhiều người cho rằng vì có tội nên anh mới bị trừng phạt như thế. Nhưng thật may, Chúa Giêsu đã thấy anh và chữa anh sáng mắt. Chúa không chỉ chữa cho anh được sáng đôi mắt thể xác, giúp anh thấy mình, thấy tha nhân, thấy cảnh vật xung quanh; nhưng quan trọng hơn, Ngài còn chữa lành đôi mắt đức tin của anh nữa. Chúa đã hỏi anh: “Anh có tin vào con người không? Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38). Chúa cho anh được thấy Ngài, được gặp Ngài, được tin Ngài và thờ phượng Ngài.
Chúng ta là những người rất diễm phúc. Diễm phúc vì được Chúa ban cho đôi mắt lành lặn, một đôi mắt sáng. Ta hãy cám ơn Chúa về ân huệ đó. Tuy nhiên, đôi mắt thể xác của chúng ta sáng nhưng có thể đôi mắt tinh thần, đôi mắt tâm hồn, đôi mắt đức tin của ta bị mù loà; như Chúa Giêsu nói với những người Pharisêu: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Đúng là có những người nhìn thấy, có những người sáng mắt nhưng tâm hồn của họ lại mù loà. Ta thường thấy có 3 loại mù loà tinh thần như sau:
1. Mù loà về bản thân
Mù vì không biết rõ mình; không biết những tài năng, những khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho. Mù vì không thấy rõ những giới hạn, những khuyết điểm, những lỗi lầm, những sai trái của bản thân. Ta thường sáng chuyện của người nhưng lại mù tối, mù mờ chuyện của mình. Có khi ta cũng giống như những anh mù xem voi. Ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ của vấn đề mà vội vàng kết luận cho đó là đúng, là sự thật, là chân lý. Ta thường có những phán đoán sai lầm, chủ quan. Tệ hơn nữa là lương tâm của ta bị mù tối; không phân biệt được điều tốt và điều xấu; mất ý thức đối với tội.
2. Mù loà về tha nhân
Ta không muốn thấy những tài năng, những điểm tốt, điểm tích cực của anh chị em để mà học hỏi, khen ngợi; nhưng ngược lại, ta chỉ thích thấy những điểm tiêu cực, điểm xấu, khuyết điểm để chỉ trích, chê bai, coi thường và có khi hạ bệ người khác. Ta cũng thấy nhưng thấy một cách phiến diện, tiêu cực; ta cũng có thể bị mù về lòng nhân: thấy người khác đau khổ mà không chạnh lòng thương, biết người ta nghèo mà không ra tay giúp đỡ, ta làm ngơ vì không dám dấn thân nhập cuộc.
3. Mù loà về Thiên Chúa
Ta không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không thấy Thiên Chúa hiện diện trong Giáo Hội, nơi tha nhân, trong Lời Chúa và trong Thánh Thể. Ta không thấy Thiên Chúa đang đồng hành với mình; không cảm nghiệm được những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm; và không tin có Thiên Chúa đang hiện hữu trong thế giới này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, xin Chúa hãy mở đôi mắt tinh thần của con để con thấy được những bất toàn, những giới hạn, những khuyết điểm của con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt tâm hồn của con để con thấy được những điều hay, những điều tốt nơi anh chị em con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt đức tin của con để con thấy Chúa, nhận ra Chúa và cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho con. Lạy Chúa, xin cho con được thấy. Amen.
16. Cửa sổ tâm hồn – Thiên Phúc
Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con."
Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh Thomas thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ông được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện kết thúc: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con."
Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như trước.
***
Người đàn ông trong câu chuyện trên đây tuy bị mù về đôi mắt thể xác, nhưng lại ngời sáng về đôi mắt đức tin. Đôi mắt đức tin của ông bừng sáng khi ông bằng lòng hy sinh đôi mắt tinh anh của thể xác để đổi lấy đôi mắt trong vắt của linh hồn.
Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng thánh Gioan 9:1-41 quả là một tấm gương sáng chói cho mỗi người tín hữu: Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt Đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, là Ánh sáng của trần gian.
Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được đức tin ngời sáng. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của Đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisêu sáng mắt mà như mù lòa. Con đường đi tới Đức tin của anh là con đường đầy chông gai, nguy hiểm. Hành trình Đức tin của anh cứ bị khựng lại bởi những hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo.
Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Đức tin ngời sáng, như đôi mắt của anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabát, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực cho Đức Giêsu và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: "Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhận lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì" (Ga 9,31-33).
Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do thái giáo, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được? Hoá ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hoá ra mù.
Họ mù quáng vì luôn cố chấp trong ý nghĩ lỗi thời, họ cho mình quyền nắm giữ đạo đức truyền thống, nên những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc, phải loại trừ. Họ mù quáng vì họ tự cao tự đại, luôn cho mình là người tinh thông luật đạo, lại thánh thiện đức độ hơn người, nên họ không bao giờ nhận mình sai sót lỗi lầm. Họ mù quáng vì lòng họ chai đá, không cảm thông được nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của người được sáng mắt. Và nhất là họ mù vì họ đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt, chính là Đức Giêsu Kitô: "Đấng là ánh sáng thế gian".
Nguy hiểm biết bao khi luôn cho mình đã nhìn rõ. Trong bao cái chai lì của đời sống làm sao chúng ta nhìn thấy hết mọi vấn đề. Cái nhìn vừa mênh mông vừa thiếu sót làm sao! Cái nhìn sai nào cũng gây bất công và đau khổ cho người khác. Tiêu chuẩn để khỏi phải hối hận vì gây đau khổ cho người khác là hãy nhìn bằng đôi mắt xót thương.
Mù loà thể xác đã là một bất hạnh không ai mong đợi, nhưng mù loà tâm hồn còn là một tai hoạ khủng khiếp nhất. Người ta có thể trở nên mù loà khi cố chấp không đón nhận sự thật: Sự thật về cái yếu đuối bất toàn của mình, sự thật về một Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Chính Người đã tuyên bố: "Sự thật sẽ giải thoát chúng con" (Ga 8,32). Sự thật chính là Đức Kitô và những gì Người đã loan báo. Tin vào sự thật là tin rằng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi mù lòa thiêng liêng. Tin vào sự thật là tin rằng Người là Ánh sáng thế gian. Tin vào sự thật là sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Người.
***
Lạy Chúa, chỉ những ai khiêm tốn nhận mình mù lòa mới được Chúa cho sáng mắt, còn những ai cho mình sáng mắt sẽ mãi mãi sống trong bóng tối tự mãn của mình. Xin đừng để chúng con ở lì trong bóng tối tội lỗi của mình, nhưng xin dẫn dắt chúng con bước đi trong ánh sáng của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Cuối thế kỷ 18 là thời kỳ được các triết gia gọi là Thời Kỳ Ánh Sáng, vì vào giai đoạn này nền triết học được hồi sinh và đem đến nhiều tư tưởng mới cho nhân loại, đồng thời đây cũng là thời kỳ khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển mạnh, nhiều người cho rằng với sự phát triển của cả lý trí và khoa học như thế, thế giới và con người được khai sáng khỏi những u mê lạc hậu, và nhất là những người cực đoan còn cho rằng đây là thời kỳ con người thoát ra khỏi sự ràng buộc của các tư tưởng tôn giáo, được giải thoát, được bay bổng trong bầu trời của ánh sáng tự do. Tuy nhiên những ước mơ và dự đoán đó không như con người dự tính, chính khoa học và cả triết học các thời kỳ sau đó đã để lại những khoảng trống tăm tối cho con người, và thay vì con người được khai sáng tự do, thì nó lại trói buộc con người vào những hình thức nô lệ mới của khoa học và công nghệ, nó mãi mãi cho thấy sự giới hạn và bất lực của con người.
Trong khi đó Lời Chúa của Chúa nhật thứ IV mùa chay lại giới thiệu cho chúng ta về Đức Giêsu là ánh sáng, Ngài đem ánh sáng đến thế gian để giải thoát con người khỏi sự mù tối của u mê lầm lạc, Ngài đem ánh sáng của Tin Mừng đến để giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của bóng tối thế gian và vật chất, giúp con người sống đúng với địa vị phẩm giá mà Chúa trao ban.
Qua câu chuyện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh, Thánh Gioan cho thấy Chúa đã khai sáng không chỉ cho người mù, mà còn cho mọi người chung quanh anh nữa. Người Do Thái thời Đức Giêsu bị bao trùm bởi rất nhiều những quan niệm sai lạc, kể cả các tông đồ cũng thế, các ông vẫn nghĩ rằng người thanh niên kia bị mù là do tội của anh ta hoặc tội của cha mẹ anh ta, nên họ mới hỏi Chúa Giêsu: “Anh bị mù do tội của anh hay tội của cha mẹ anh?” Nhưng Chúa Giêsu đã thay đổi suy nghĩ cổ hủ của các tông đồ, khi Ngài khẳng định với các ông: “Anh bị mù không phải vì tội của anh, cũng không bởi cha mẹ anh, nhưng là để mọi người được thấy công trình của Thiên Chúa được thể hiện nơi anh”. Cùng một sự kiện, nhưng Chúa muốn các tông đồ nhìn theo chiều hướng tích cực và trong cái nhìn tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải cái nhìn mang tính kết án.
Đối với người mù, Chúa Giêsu đã chạm đến mắt anh, tức là động chạm đến cả con người của anh, không chỉ chạm bằng tay, mà còn là sự đụng chạm gặp gỡ của trái tim, của tình yêu của một vị Thiên Chúa làm Người, dành cho một con người bất hạnh, bị xã hội loại bỏ, bị gán cho muôn vàn thứ tội. Ngài không chỉ mở mắt thể xác cho anh, mà Ngài còn mở mắt linh hồn để anh nhìn thấy Đức Giêsu là một vị ngôn Sứ, trong khi những người Biệt Phái bị bao trùm bởi bóng tối của sự tự cao tự phụ, cho mình cái quyền kết án người khác, họ bị thành kiến che mờ mắt, khiến họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người vi phạm ngày Sabat. Sau khi được sáng mắt, thì người trước đây bị mù được khai sáng đã trở thành người hết sức bênh vực cho Đức Giêsu, anh khẳng định: “Ngài là một vị Ngôn Sứ”.
Với đám đông người Do Thái cũng thế, họ bị trói buộc trong những tập tục của mình, khiến họ khó lòng đón nhận được ánh sáng mới từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, họ đến để gây áp lực với cha mẹ của anh mù: “Đây có phải là con ông bà không? Có phải nó bị mù từ khi mới sinh không? Tại sao bây giờ nó lại thấy?” Vì sợ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng, nên cha mẹ anh mù đã để cho bóng đêm của sự sợ hãi giam giữ khiến họ không dám tuyên xưng Đức Giêsu là một Ngôn Sứ, mà họ đã nói tránh rằng: “Con tôi nó lớn rồi, các ông cứ hỏi nó.”
Còn đối với người mù đã được chữa lành, anh đã hoàn toàn thoát ra khỏi bóng đêm của sự sợ hãi cho dù người Do Thái đã nhiều lần chất vấn anh, lần này họ muốn anh nhân danh Thiên Chúa để vu cáo cho Đức Giêsu là người tội lỗi. Nhưng câu chuyện cho thấy anh đã bước một bước dài trong đời sống đức tin, anh không chỉ tin Đức Giêsu là một Ngôn sứ, mà giờ đây anh còn can đảm làm chứng và bênh vực Ngài, anh lặp lại việc Chúa Giêsu đã chữa anh và anh tuyên bố: “Trước đây tôi bị mù nhưng nay ông ấy đã chữa cho tôi được sáng.” Anh còn trở thành người giải thích về quyền năng của Thiên Chúa cho những người chung quanh:” Ai kính sợ Thiên Chúa, luôn làm theo ý Người thì Người nhậm lời kẻ ấy… nếu không phải bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ấy sẻ chẳng làm được gì.”
Trước một đức tin non nớt lại gặp thử thách bởi những thành kiến, quan niệm và tập tục của những người chung quanh, nên khi gặp lại anh, Chúa Giêsu đã dẫn anh lên một bước cao hơn, củng cố đức tin cho anh, khi Ngài mời gọi anh tuyên xưng đức tin: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh thưa: “Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu xác nhận với anh: “Chính Đấng ấy đang nói với anh đây”. Và anh đã tuyên xưng: “Thưa Ngài tôi tin và sấp mình xuống trước mặt Ngài”. Đó là thái độ thể hiện sự vâng phục của đức tin nơi anh mù, anh sấp mình để thờ lạy Ngài.
Như thế, ánh sáng của đức tin khác với ánh sáng của khoa học, của triết học và khác hẳn với ánh sáng của tự nhiên, để nhìn thấy được ánh sáng này đòi phải có một con mắt của linh hồn thật trong sáng, vì cái nhìn của con mắt loài người bên ngoài có thể lầm lẫn, có thể đánh lừa và dẫn đến sai lạc, còn ánh sáng của Tin Mừng của Đức Giêsu thì chiếu dọi vào trong tâm hồn, những ai mở cửa tâm hồn, thì đón nhận được ánh sáng này, và những ai khiêm nhường thì sẽ được ánh sáng này dẫn lối và đưa đến hạnh phúc. Sách Samuel cũng cho thấy sự khác biệt giữa cái nhìn của Thiên Chúa và cái nhìn của con người trong việc Samuel được sai đi xức dầu chọn Đavít làm vua Israel. Con người chỉ nhìn và đánh giá sự việc theo cái nhìn và tiêu chuẩn bên ngoài, còn Thiên Chúa lại nhìn thấu tâm hồn và Ngài đánh giá tuyển chọn một con người là tùy ở thái độ tâm hồn của người đó sẵn sáng đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Thưa quý OBACE, thánh Phaolô đã quả quyết rằng: “Nhờ ơn của Bí tích Thánh tẩy chúng ta đã trở nên con cái của ánh sáng, con cái của Tin Mừng và vì thế, chúng ta phải ăn ở, phải sống cho xứng đáng là con cái của ánh sáng, tức là phải sống công chính, ngay thẳng lương thiện, và không bao giờ được tán đồng, làm ngơ hay cộng tác với sự dữ và bóng tối”.
Mặc dù đã là con cái sự sáng, nhưng chúng ta vẫn bị ma quỷ lôi kéo chúng ta vào bóng tối hoặc vì để mình sống trong tình trạng tội lỗi gian dối, nên chúng ta sợ ánh sáng, sợ những gì là minh bạch. Còn rất nhiều những bóng tối đang bao trùm trong các gia đình, đó là bóng tối của bất hạnh, cãi vã, đổ vỡ, của sự bạo hành, bóng tối của gian dối, của việc làm ăn lươn lẹo, bất công. Giống như những người Do Thái, nhiều người đã sống trong sự cố chấp, bảo thủ trong sự sai lầm của mình, không dám đón nhận ánh sáng sự thật của Đức Kitô và Tin Mừng và vì thế, họ dùng nhiều lý do để gạt bỏ Đức Giêsu ra khỏi tâm hồn, ra khỏi công việc và đời sống của gia đình. Chúa Giêsu là Đấng đem đến cho chúng ta ánh sáng cứu độ, chỉ cho chúng ta con đường giải thoát, mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu và sự săn sóc của Chúa, song nhiều người đã nhất định từ chối Ngài, và muốn tự mình bước đi trong bóng tối của thế gian, của ma quỷ và của dục vọng.
Trong xã hội ngày nay còn nhiều những bóng tối và sự mù lòa khác, sự mù lòa của những kẻ nhân danh khoa học để từ chối không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, xã hội ngày nay bị che phủ bởi bóng tối của sự gian dối, của bất công, khiến cho nhiều người bị lầm lạc và lẫn lộn không thể phân biệt đúng hay sai; sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng kéo theo nó bóng tối của sự ích kỷ, dửng dưng khiến cho nhiều người quên mất sự hiện diện của người bên cạnh. Bên cạnh đó còn bao nhiêu những triết lý, học thuyết sai lạc đang dẫn con người đi vào ngõ cụt, đang hủy hoại tâm hồn của nhiều thế hệ, biến nhiều tâm hồn trở nên khô cằn sỏi đá không còn nhạy bén trước lời mời gọi của Tin Mừng nữa.
Những loại bóng tối mù lòa này đang ảnh hưởng và bao trùm trên nhiều người trẻ, khiến cho nhiều bạn trẻ lạc đường mất hướng, sống một cuộc sống không có mục đích, không lý tưởng, hoặc biến nhiều người trẻ khác lao vào những hình bóng, ảo ảnh của danh vọng, địa vị, tiền bạc, và đoạn cuối của con đường này là sự bế tắc và trống rỗng. Chỉ có Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài mới là ánh sáng thật soi rọi cho chúng ta, giới răn và lề luật của Ngài sẽ chữa chúng ta khỏi sự mù lòa của thể xác và tâm hồn, tình yêu của Ngài sẽ dẫn lối chúng ta bước đi trong ánh sáng của tự do, của sự thật, của công lý.
Xin Chúa giúp chúng ta noi gương Mẹ Maria mạnh dạn mở tung mọi cánh cửa của tâm hồn để cho ánh sáng của Tin Mừng chiếu dọi vào mọi góc khuất của cuộc đời, biến chúng ta nên con cái của ánh sáng, giúp chúng ta loại trừ bóng tối của chết chóc, giúp mỗi người sống và hành động như là con cái của ánh sáng. Amen.
18. Mở quà – Lm Vũ Đình Tường
Tuần qua Đức Kitô đàm đạo với chị phụ nữ tại giếng nước. Chị nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa và xin Ngài ban cho nước trường sinh. Nước rửa sạch tội đời để được sống muôn đời.
Tuần này câu chuyện người mù từ lúc mới sinh cho thấy lợi ích khác của nước. Nước rửa sạch bụi trần, lột trần tăm tối. Mang lại ánh sáng cho người mù giúp anh trở nên con người mới. Con người của niềm tin, nhân chứng trung kiên cho Đức Kitô.
Người ta thường nói mù dẫn mù cả hai sa xuống hố. Câu chuyện người mù hôm nay Chúa thực hiện trái ngược thói đời. Người mù chỉ đường cho kẻ tự nhận sáng mắt.
Bởi vì tự hào mình sáng nên không biết là sáng mắt thể lí có thể mù mắt tâm linh và mù mắt thể lí có thể sáng mắt tâm linh.
Có lẽ trong ánh sáng ngầm chứa mầm tối và trong tối ẩn dấu sự sáng. Mạnh sẽ khống chế yếu. Nếu ánh sáng mạnh hơn nó sẽ, đẩy lui làm lu mờ bóng tối. Nếu bóng tối mạnh hơn nó sẽ bao trùm, phủ kín ánh sáng.
Người mù từ lúc mới sanh từng sống trong tăm tối. Anh trở nên sáng vì anh khao khát ánh sáng. Khi ánh sáng đến anh vui mừng đón nhận. Anh trân trọng chào đón và mắt anh được sáng. Anh nhìn thấy vật mà trước đây chưa từng thấy. Anh còn nhìn rõ hơn cả những nhà lãnh đạo trong cộng đoàn. Chính vì nhìn rõ, tốt và chính xác hơn mà nhà lãnh đạo ghen, tức với anh. Họ xỉ vả và cuối cùng lạm quyền xua đuổi anh khỏi hội đường. Anh mù được sáng mắt thể lí. Quan trọng hơn anh còn sáng cả con mắt tâm linh, con mắt đức tin. Nhờ thế mà anh nhìn và nhận biết Đức Kitô chính là Thiên Chúa, Đấng ban ơn cứu độ. Mắt anh từ từ được mở ra.
Đầu tiên anh không nhìn thấy Đức Kitô.
Anh nhận biết Ngài như thầy thuốc nhân hậu
Anh tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa.
Chính nhận biết này mà anh gặp rắc rối, chống đối từ các người tự nhận là sáng mắt. Họ kết án anh là quân tội lỗi. Không phải tội thường mà tội ngập đầu. Có nghĩa là anh sinh ra trong đống tội.
Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư. Rồi họ trục xuất anh c.34
Điều lạ
Điều lạ lùng là người mù bị hất hủi mà không giận hờn. Bị xua đuổi mà không tủi hổ. Bị coi thường mà vẫn kính trọng người. Bị đối xử bất công mà vẫn công tâm làm chứng. Bị áp bức không sờn lòng. Rất có thể anh đã quen với lối xã hội đối xử bất công với người tàn tật. Điều chắc chắn là ơn Chúa trong anh mạnh hơn mọi khốn khó. Ơn chúa ban cho anh an bình nội tâm nên anh bình tĩnh, trung kiên, trước sau như một, làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Một nhân chứng gây chia rẽ trong nội bộ nhà lãnh đạo. Phúc âm nhắc rất vắn gọn.
Thế là họ đâm ra chia rẽ c.16
Điều lạ khác là hàng xóm, láng giềng không nhận ra anh. Kẻ xác quyết chính anh. Kẻ khác cãi không phải. Kẻ nữa trung dung hơn giải thích, không phải anh mà là người nào đó trông giống anh. Tất cả đều tự nhận mình mắt sáng nhưng đều không biết mình mờ khi cần phải quan sát, nhận định. Càng không nhận ra nhận định của mình mù quáng.
Có lẽ giọng nói người mù vẫn như xưa, còn mọi sự đều mới. Mắt anh sáng. Cách xử thế trong sáng. Dáng đi thay đổi, không còn dò đường như xưa. Anh đứng thẳng mà không khòm lưng kiểu xin ăn. Anh thành con người mới trong Đức Kitô. Thay đổi tốt hơn nơi anh không mở mắt cho người mắt sáng. Trái lại làm cho họ mù mờ thêm.
Người ta mù mờ ngay cả với sự xác nhận của anh. Anh quả quyết chính anh là người mù, được Đức Kitô chữa làm cho sáng mắt. Anh còn kể mạch lạc đầu đuôi, diễn tiến sự việc, dẫu thế người ta vẫn mù loà trong lối suy nghĩ cứng nhắc của mình. Cứng ngắc trong phán đoán là một loại mù quáng ít ai chấp nhận. Người ta bảo anh
Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu c.34
Với họ anh luôn là tội nhân. Tật mù loà bẩm sinh của anh trở thành một tội không thể tha thứ. Giờ đây anh sắng mắt. Người ta muốn anh chối bỏ chính con người anh. Nếu không chối bỏ, được sáng mắt anh vẫn mang kiếp tội nhân. Trong tâm trí nhà lãnh đạo anh luôn là tội nhân. Anh không được phép thay đổi. Sanh ra kiếp nào mang số đó đến ngàn đời. Đức Kitô đã thay đổi số kiếp cho anh. Biến anh thành chứng nhân Kitô cho dân tộc anh, cho thế giới.
Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người c.38
Anh sấp mình xuống trước mặt Ngài biểu tỏ lòng khiêm nhường nơi người mù. Anh sấp mình xuống, vì anh hạ mình xuống nên Đức Kitô nâng anh dậy và cho anh nhận biết sự sống trường sinh. Anh có một ước mong duy nhất, được mắt sáng và anh được toại nguyện. Sáng mắt, anh ước mong được trở thành môn đệ Đức Kitô và Ngài đón nhận anh. Nghe nói họ trục xuất anh. Đức Kitô tìm đến an ủi, tạo cho anh cơ hội tuyên xưng đức tin. Thưa Ngài, tôi tin.
Nhà lãnh đạo có mắt mà nhìn không thấy vì bản tính cao ngạo của họ. Chính bản tính cao ngạo này gây chia rẽ giữa họ. Làm cho họ ra mù mờ về Đức Kitô, cản trở họ nhận biết Đức Kitô và cản trở người khác đón nhận Chúa. Chúng ta cầu xin biết sống khiêm nhường bởi đây là lối sống dẫn đến sự sáng tâm hồn.
19. Đón nhận chân lý – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Câu chuyện hôm nay đặt ra trước mầu nhiệm khôn lường của sự từ khước ánh sáng. Phái Pharisêu không tự truy vấn mình, kiểm thảo mình, lại từ chối sự thật hiển nhiên bằng cách khai trừ người mù được chữa lành. Để hiểu rõ hai chi tiết trong bài, nên lưu ý điều này là, theo quan niệm thông thường, nước miếng có sức chữa lành. Ta hiểu tại sao Chúa Giêsu đã làm bùn xức vào mắt người mù. Đức Giêsu thường ghép hành động thần thiêng của Người vào trong các thực tại tự nhiên khiêm tốn nhất. Đàng khác, sở dĩ người Pharisêu tố cáo người mù đã sinh ra trong tội, là vì theo đạo lý họ, bệnh tật là hình phạt về một lỗi phạm –ở đây là lỗi phạm của cha mẹ- Đó là điều Chúa phản đối. Câu chuyện về người mù đặt ra một cách gay cấn vấn đề đón nhận chân lý như thấy hiện ra khắp nơi trong các bản văn của thánh Gioan. Ở đây ta đứng lên trên cả vấn đề phép lạ và hiệu năng của phép lạ xét như dấu hiệu; ta đứng trước một sự mù quáng tinh thần không chịu nhìn xem chính cái dấu hiệu nữa. Lòng thù ghét có sức tạo nên một trạng thái tâm lý làm cho con người nên đui mù. Khi tâm hồn bị đóng kín lại, nó không còn thấy điều hiển nhiên nữa. Cả đến sự thật bên ngoài khách quan về việc người mù đã lành bệnh, ai ai cũng biết hết, thế mà người Pharisêu vẫn từ chối, vẫn bài bác. Có lần Chúa Giêsu đã phải nói với người Do Thái rằng dù một phép lạ xảy ra trên trời (gây chấn động mạnh mẽ) cũng khó cho họ nhìn nhận.
Thái độ từ khước ánh sáng có nhiều đặc điểm. Sau đây là hai đặc điểm:
1) Người ta lấy một khía cạnh của sự thật, cô lập nó, dựng nó lên thành tuyệt đối, mà quên rằng nó tuỳ thuộc vào những yếu tố khác quan hệ hơn của sự thật ấy. Kiêng việc xác ngày lễ nghỉ là một điều luật. Giữ luật ấy là việc tốt. Nhưng nó lệ thuộc vào luật bác ái, luật này cao trọng hơn. Vậy mà người Do Thái xem nó là một điều tuyệt đối. Nhân danh ngày “lễ nghỉ”, họ từ khước lòng bác ái. Lối suy nghĩ này là đầu giây mối nhợ của bao nhiêu vụ tranh luận, cãi cọ mà họ kéo Chúa Giêsu vào. Trong Giáo Hội hiện nay cũng có nhiều hiện tượng thuộc loại này. Ví dụ: người ta tách riêng một ít trong Phúc Âm, coi đó là tuyệt đối, rồi sử dụng để biện minh cho bạo lực nhân danh Tin Mừng.
2) Người ta ngồi vào trong một hệ thống ý tưởng mà họ quyết đoán là đúng. Họ làm như thế có thể là vì trí không hướng nhiều về dường ấy, vì một lợi ích nào, vì tình liên đới với phe nhóm v.v… Nét tiêu biểu là ở chỗ họ coi mình là người biết, người sáng suốt, người hiểu rõ, Chúa Giêsu trách bọn Pharisêu vì họ nói: “Chúng tôi thấy”. Trước một não trạng như thế, khi chân lý xuất hiện một cách khác thường, nó sẽ không được nhìn nhận. Mà trong đời sống con người, chân lý của Chúa thường mặc những hình thức bất ngờ và gây khó chịu cho thói quen của ta. Chân lý ấy làm nổ tung mọi hệ thống tư tưởng và mọi chương trình hành động. Người Kitô hữu khi suy nghĩ cũng như lúc hành động phải chăm chú nhìn những dấu hiệu của Chúa.
Anh chị em thân mến.
Khi ánh hoàng hôn từ từ buông xuống, vạn vật cũng chuẫn bị khép mình để bước vào sự yên lặng của màn đêm, một sự yên lặng bất động.
Khi ánh bình minh từ từ ló dạng, mọi vật bắt đầu vươn mình đón chào một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt trong ánh sáng chan hoà của ngày mới. Mọi công việc đều được hoạt động dưới ánh sáng, nếu không có ánh sáng thì không thể làm gì được. Khi con người làm việc dưới ánh sáng dù cho là ánh sáng ban ngày hay ánh sáng nhân tạo đi nữa thì vẫn phải cố sức mà làm việc, có khi vì công việc mà con người phải vất vả mệt nhọc, nhưng vẫn phải cố gắng vượt qua tất cả. Ánh sáng được mang đến để cho con người có phương tiện thuận lợi mà làm việc. Nếu con người không biết tận dụng những lúc có ánh sáng thì thật là uổng phí, vì khi không còn ánh sáng, con người khó mà thực hiện công việc cho hoàn hảo. Nhưng khi có ánh sáng, không phải lúc nào công việc cũng thành công, cũng có những khó khăn của công việc cho dù với ánh sáng đòi buộc con người phải vượt qua với tất cả quyết tâm của mình.
Một người mù từ lúc mới sinh, nghĩa là anh ta được sinh ra trong bóng đêm của cuộc đời. Anh ta ngồi bất động bên vệ đường chờ người khác ban phát. Anh không hành động gì hết vì chung quanh anh chỉ là bóng tối, nên anh không lãnh trách nhiệm gì hết. Nhưng khi anh vừa sáng mắt, ánh bình minh chiếu vào cuộc đời, thì sự yên tĩnh của màn đêm không còn nữa, mà anh bắt đầu hoạt đ